Năm 2013, 2 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục đầu tiên ở nước
ta đã được thành lập. Đến nay, cả nước có 7 trung tâm kiểm định chất
lượng giáo dục và 10 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài
được phép hoạt động tại Việt Nam.
Các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục được kỳ vọng sẽ là “cánh tay nối dài” của ngành trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Hệ thống các trung tâm kiểm định và trường đại học Việt Nam đang có những bước đi không thể phủ nhận Được thành lập từ năm 2017 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày
2/6/2018 đến nay, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Trường Đại
học Vinh đã đánh giá và công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục cho
20 cơ sở giáo dục và 202 chương trình đào tạo (Tính đến 31/12/2023).
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ
Trần Đình Quang - Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục –
Trường Đại học Vinh cho hay, ngoài thực hiện kiểm định chất lượng, Trung
tâm còn cung cấp các hoạt động bồi dưỡng, tư vấn công tác bảo đảm chất
lượng trong cơ sở giáo dục đại học, tư vấn hoạt động tự đánh giá và cải
tiến chất lượng cho các cơ sở giáo dục đại học; tăng cường năng lực và
nhận thức cho đội ngũ làm công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo
dục nói riêng, cũng như cho hệ thống giáo dục đại học nói chung.
Cùng với sự hoàn thiện từng bước của hệ thống hành lang pháp lý về
kiểm định chất lượng giáo dục, kết hợp công tác quản lý, kiểm tra, đôn
đốc thường xuyên của Cục Quản lý chất lượng đã giúp Trung tâm hiểu đúng
và hoạt động phù hợp quy định hơn.
“Bên cạnh đó, nhờ có sự đầu tư ban đầu của Trường Đại học Vinh,
Trung tâm có đủ các điều kiện để triển khai hoạt động kiểm định chất
lượng giáo dục theo quy định hiện hành. Đặc biệt, nhờ sự thống nhất, nỗ
lực cao của cán bộ, viên chức Trung tâm trong việc phụng sự các cơ sở
giáo dục, Trung tâm được nhiều cơ sở giáo dục (trong đó có nhiều cơ sở
giáo dục thuộc top đầu cả nước) tin tưởng và lựa chọn để đăng kí kiểm
định chất lượng giáo dục”, Tiến sĩ Trần Đình Quang chia sẻ về những
thuận lợi của Trung tâm trong hơn 6 năm đi vào hoạt động đến nay. TS. Trần Đình Quang - Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Trường Đại học Vinh Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, Tiến sĩ Trần Đình Quang cho biết Trung tâm cũng gặp phải một số khó khăn.
Một trong những khó khăn kể đến là quy định về tài chính cho công tác
kiểm định chất lượng giáo dục. Cụ thể như đấu thầu trong kiểm định chất
lượng giáo dục còn chưa thực sự thuận lợi.
Phân tích thêm, Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục –
Trường Đại học Vinh cho biết: Chẳng hạn, để đủ điều kiện tham dự và
thắng thầu cần có dự kiến Đoàn đánh giá ngoài cũng như thời gian
khảo sát chính thức. Tuy nhiên, việc đấu thầu có thể kéo dài, dẫn đến
thời gian thực hiện sẽ có sự thay đổi và một số kiểm định viên đã đăng
kí không thể tiếp tục tham gia đoàn đánh giá ngoài như lúc tham dự thầu.
Điều này gây khó khăn cho việc thay thế thành viên đoàn phù hợp với
năng lực yêu cầu.
Một khó khăn khác là số lượng chương trình đào tạo của cả nước nhiều
(vài nghìn), trong khi số lượng kiểm định viên trong cả nước là giới hạn
(hàng trăm), được 07 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục dùng chung
nên có lúc các trung tâm bị động trong việc lập kế hoạch thời gian cũng
như mời thành công kiểm định viên phù hợp với chuyên môn của chương
trình đào tạo được đánh giá.
Ngoài ra, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Trường Đại học
Vinh đóng ở địa bàn xa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh - vốn là các địa
bàn tập trung nhiều trường đại học, giao thông thuận tiện, có nhiều kiểm
định viên cư trú, do vậy chi phí các đoàn đánh giá ngoài của Trung tâm
thường cao hơn các trung tâm ở tại hoặc gần Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh nên tính cạnh tranh của Trung tâm về chi phí bị giảm.
Chưa kể, các trung tâm kiểm định trong nước cũng gặp phải sự cạnh tranh với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài
hoạt động tại Việt Nam. Theo Tiến sĩ Trần Đình Quang, các tổ chức kiểm
định chất lượng giáo dục nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có lợi thế
riêng vì không phải tuân thủ một số quy định của Việt Nam như số lượng
thành viên mỗi đoàn đánh giá ngoài, thời gian đánh giá… nên thực tế các
tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài có số thành viên đoàn
ít hơn, số ngày khảo sát chính thức ngắn hơn. Từ đó, chi phí cũng thấp
hơn nên có lợi thế cạnh tranh cao hơn so với các tổ chức kiểm định chất
lượng giáo dục trong nước. Thành lập ngày 16/3/2021, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài
Gòn (CEA-SAIGON) là 1 trong 2 trung tâm kiểm định chất lượng ngoài công
lập của cả nước (hoạt động chính thức ngày 19/11/2021).
Nhà giáo ưu tú, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung - Giám đốc Trung tâm Kiểm
định chất lượng Giáo dục Sài Gòn đánh giá, sự ra đời của CEA-SAIGON là
một bước ngoặt của hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt
Nam trong việc thực hiện các quy định về kiểm định chất lượng theo Luật
Giáo dục Đại học. Đặc biệt chính là đảm bảo yêu cầu về tính độc lập
của trung tâm kiểm định chất lượng, được quy định tại Khoản 1, Điều 52
Luật Giáo dục đại học sửa đổi, có hiệu lực từ ngày 01/7/2019: “…Tổ chức
kiểm định chất lượng giáo dục có tư cách pháp nhân, độc lập về tổ chức
với cơ quan quản lý nhà nước và cơ sở giáo dục đại học, có trách nhiệm
giải trình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động kiểm định và
kết quả kiểm định chất lượng giáo dục đại học”.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung, tính đến năm 2023, CEA-SAIGON đã tham
gia đánh giá và công nhận đạt chất lượng cho 4 cơ sở giáo dục và 98
chương trình đào tạo.
Đề cập đến một số khó khăn trong hoạt động của Trung tâm, Tiến sĩ
Nguyễn Kim Dung cho hay, Trung tâm phải thích nghi nhanh với sự thay đổi
của thời đại, khi nhu cầu hội nhập, quốc tế hóa chất lượng đánh giá để
vừa thực hiện vai trò của một cơ quan chịu trách nhiệm công nhận chất
lượng của cơ sở giáo dục và các chương trình đào tạo xứng đáng, vừa
không tạo ra các áp lực đẩy các trường vào thế đối phó.
“Trong thời gian gần đây, hệ thống giáo dục Việt Nam ngày càng được
củng cố hơn để khẳng định chất lượng và chịu trách nhiệm với xã hội về
chất lượng của một cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo.
Cho nên, với những yêu cầu hiện nay của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
kiểm định các trường đại học và các chương trình đại học chúng ta thấy
số lượng là rất lớn. Điều đó cũng cho thấy các trung tâm đang phải chịu
một áp lực làm sao có thể đạt được mục tiêu về kiểm định mà hệ thống
giáo dục đại học đặt ra”, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung phân tích thực tế. TS. Nguyễn Kim Dung – Giám đốc Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng Giáo dục Sài Gòn (CEA-SAIGON) Với kinh nghiệm hơn 20 năm trong lĩnh vực kiểm định chất lượng, Tiến
sĩ Nguyễn Kim Dung đánh giá, kiểm định chất lượng là một phần quan trọng
trong quá trình giáo dục và đào tạo của một cơ sở giáo dục. Kiểm định
chất lượng giúp bảo đảm chương trình đào tạo đáp ứng các tiêu
chuẩn và yêu cầu chất lượng, bảo đảm rằng người học nhận được một trải
nghiệm học tập tốt và chuẩn bị cho tương lai. Bên cạnh đó, kiểm định
chất lượng cũng bảo đảm giúp cơ sở giáo dục đáp ứng các tiêu chuẩn chất
lượng quốc gia và quốc tế.
“Chúng tôi cho rằng với thời đại ngày nay, các trường đại học ngày
càng phải mở cửa để phát triển. Nếu các cơ sở giáo dục không thực sự
nghiêm túc làm đánh giá ngoài để nhận được những góc nhìn khách quan,
công tâm, đóng góp cho sự phát triển mới thì dễ bị tâm lý trì trệ, giậm
chân tại chỗ hoặc tuột dốc trong đào tạo”, chuyên gia nhấn mạnh.
Giám đốc CEA-SAIGON chia sẻ, qua đánh giá ngoài ở nhiều trường đại
học cho thấy chất lượng dạy học sau đánh giá ngoài, các trường đã xây
dựng kế hoạch hành động nhằm cải tiến các tồn tại, do đó, chất lượng các
chương trình đào tạo của các trường đã được nâng lên đáng kể.
Lấy dẫn chứng thực tế, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung chia sẻ, sau đánh giá,
họ đã phát triển nguồn nhân lực bảo đảm chất lượng, xây dựng và cải
tiến chương trình đào tạo, rà soát và chỉnh sửa các đề cương chi tiết,
các quy trình, quy định quản lý chương trình đào tạo, cơ sở vật chất,
trang thiết bị, điều tra khảo sát để hướng đến đạt chuẩn quốc gia, khu
vực và quốc tế.
“Tất nhiên, so với nhiều nước, hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục
đại học vẫn còn nhiều điều cần cải tiến, nhưng không thể phủ nhận là
với yêu cầu hội nhập, minh bạch thông tin, cải tiến chất lượng không
ngừng, hệ thống các trung tâm kiểm định và các trường đại học Việt Nam
đang có những bước đi không thể phủ nhận”, chuyên gia nhấn mạnh.
Cũng đánh giá cao những tác động tích cực của hoạt động kiểm định tới
việc nâng cao chất lượng giáo dục, Tiến sĩ Trần Đình Quang chia sẻ, từ
khi vấn đề kiểm định chất lượng giáo dục đại học được luật hóa và trở
thành yêu cầu bảo đảm chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học, một
trong những thay đổi lớn nhất là văn hóa chất lượng đã được hình thành trong các cơ sở giáo dục đại học.
Theo chuyên gia, trước đây, khi đề cập đến các khái niệm như kiểm
định chất lượng, bảo đảm chất lượng, chuẩn đầu ra, chương trình dạy học,
chương trình đào tạo theo tiếp cận OBE (Outcomes-Based Education - xây
dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra - PV)… dường như là mới lạ
với nhiều cán bộ, giảng viên. Đến nay, các khái niệm này đã trở nên quen
thuộc với hầu hết giảng viên.
Một thay đổi khác dễ nhận thấy là trước đây các trường đại học nước
ta chủ yếu dạy học theo tiếp cận nội dung, lấy giảng viên làm trung tâm
(thầy có gì dạy nấy). Tuy nhiên, kể từ khi triển khai kiểm định chất
lượng giáo dục, dạy học nhằm đạt được chuẩn đầu ra được chú trọng, giáo
dục chuyển từ lấy giảng viên làm trung tâm sang lấy người học làm trung
tâm (giảng viên dạy cái mà thị trường lao động cần).
Tiến sĩ Trần Đình Quang nhận định, đây chính là lý do các cơ sở giáo
dục, giảng viên quan tâm đến phát triển chương trình đào tạo theo OBE
như hiện nay.
Vì sao một số cơ sở giáo dục chưa thực hiện kiểm định chất lượng?
Hoạt động kiểm định chất lượng bao gồm kiểm định cơ sở giáo dục (kiểm định trường) và kiểm định chương trình đào tạo.
Hiện cả nước có 244 cơ sở giáo dục đại học (chưa tính các cơ sở giáo
dục thuộc khối trường Công an và Quân đội). Trong khi đó, thống kê đến
ngày 31/12/2023 cho thấy mới có 187 cơ sở giáo dục đại học, 11 trường
cao đẳng sư phạm được công nhận đạt chuẩn chất lượng giáo dục theo tiêu
chuẩn trong nước, 9 cơ sở giáo dục đạt chuẩn chất lượng giáo dục theo
tiêu chuẩn nước ngoài. Như vậy, còn khoảng 57 cơ sở còn lại chưa kiểm
định hoặc chưa được công nhận đạt chuẩn (theo tiêu chuẩn trong nước). Lý giải nguyên nhân một số cơ sở giáo dục chưa thực hiện kiểm định
chất lượng cơ sở giáo dục, Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo
dục – Trường Đại học Vinh nhận định, một mặt do yêu cầu về chuẩn chất
lượng giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng ngày một nâng cao.
Theo đó, các văn bản của Nhà nước ta về các quy định, yêu cầu này ngày
càng cụ thể và có tính hội nhập cao hơn, khó đáp ứng hơn.
Bên cạnh đó, chuyên gia chỉ ra thêm 3 nhóm nguyên nhân chính:
Thứ nhất, cơ sở giáo dục thuộc địa phương (do tỉnh, thành phố quản
lý) hoặc đóng ở địa phương xa Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh - nơi hội tụ
nhiều người có trình độ cao (thạc sĩ trở lên mới đủ tiêu chuẩn làm
giảng viên đại học) nên gặp khó khăn trong việc tuyển đủ giảng viên cơ
hữu theo quy định.
Thứ hai, cơ sở giáo dục trực thuộc các bộ chuyên ngành (khác với Bộ
Giáo dục và Đào tạo) và cơ sở giáo dục trực thuộc tỉnh/thành phố thường
khó khăn hơn trong việc thành lập Hội đồng trường. Trong khi đó, việc có
Hội đồng trường là một trong những điều kiện, yêu cầu để có thể đạt
tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục.
Thứ ba, cơ sở giáo dục mới thành lập (dưới 10 năm chẳng hạn), nguồn
tài chính của nhà đầu tư hạn hẹp, vận hành của nhà trường phụ thuộc
nhiều vào nguồn thu học phí hay kết quả tuyển sinh. Kết quả tuyển sinh
lại phụ thuộc sự đầu tư cơ sở vật chất, con người của nhà đầu tư, danh
tiếng của nhà trường, được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục…
Bên cạnh các yếu tố về nguồn lực thực hiện kiểm định, bao gồm cả về
nhân lực lẫn tài chính, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung phân tích thêm nguyên
nhân đến từ việc một số trường chưa thấy được tầm quan trọng của kiểm
định chất lượng đối với sự phát triển của nhà trường.
"Thẳng thắn mà nói, qua quá trình đánh giá chất lượng giáo dục, đâu
đó có cơ sở giáo dục đại học còn mang tư tưởng mình có danh tiếng, đã
làm tốt nên không cần quan tâm đến công tác đánh giá ngoài. Một số khác
lại quan niệm, kiểm định cho có, cho đủ quy định”, Giám đốc CEA-SAIGON
nêu thực tế.
Bên cạnh động lực tự phát triển của các chương trình đào tạo và các
cơ sở giáo dục, để thực sự khách quan, minh bạch, Tiến sĩ Nguyễn Kim
Dung nhấn mạnh, rất cần các tổ chức kiểm định độc lập đứng ra thực hiện
việc thúc đẩy các trường phải tập trung vào chất lượng.
“Thực tế, bên cạnh công nhận các cơ sở và các chương trình đạt chuẩn
thì đánh giá ngoài còn giúp chỉ ra rất nhiều lỗ hổng, thiếu sót, thậm
chí là những bước chậm tiến, cách làm lỗi thời của các đơn vị đào tạo để
các trường không ngừng cải tiến”, chuyên gia cho hay.
Về kiểm định chương trình đào tạo, thống kê về số lượng các chương
trình đào tạo cho thấy số lượng các chương trình được kiểm định ngày
càng tăng. Cụ thể, theo thống kê của Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục
và Đào tạo), tính đến ngày 31/12/2023, toàn quốc có 1.611 chương trình
đào tạo các trình độ của giáo dục đại học được kiểm định và cấp chứng
nhận, trong đó có 1.125 chương trình đánh giá theo tiêu chuẩn trong
nước; 486 chương trình đánh giá theo tiêu chuẩn nước ngoài.
Các chuyên gia đều nhận định, số lượng chương trình được kiểm định
ngày càng tăng cho thấy sự quan tâm của các trường đại học đến việc đáp
ứng các yêu cầu kiểm định ngày càng lớn.
“Tất nhiên, theo quy định của Luật, việc một chương trình đào tạo
được kiểm định là bắt buộc cho việc tiếp tục đào tạo, mở ngành cao hơn
cũng là một yếu tố quan trọng để bắt buộc các trường phải đăng ký đánh
giá. Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy các trường ngày càng thể hiện
tính trách nhiệm giải trình, công bố thông tin và chịu trách nhiệm với
các bên liên quan và trước xã hội về các hoạt động và sản phẩm của mình.
Đây cũng là vấn đề sống còn của các trường đại học và cũng là xu thế
của thế giới học thuật hiện nay. Minh bạch về thông tin, đi kèm với yêu
cầu về chất lượng, sự giải trình ngày càng cần rõ ràng, chuyên nghiệp và
khẳng định uy tín của các trường”, Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung đánh giá.
Tuy nhiên, vị chuyên gia cũng lưu ý, có nhiều vấn đề quan trọng trong
kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo được đặt ra, ví dụ như
vấn đề về nhân sự tham gia đánh giá ngoài các chương trình đào tạo.
Cụ thể, hệ thống hiện nay có khoảng 6500 chương trình đào tạo; trong
khi đó thời gian qua, cả nước cũng chỉ có khoảng hơn 300 kiểm định viên
được cấp thẻ. Do đó, khi kiểm định chương trình đào tạo, theo quy định
mỗi đoàn đánh giá ngoài có từ 5-7 kiểm định viên nhưng không phải chương
trình nào cũng có đủ kiểm định viên có chuyên môn đúng với chương trình
được kiểm định.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Kim Dung, cho dù trong kỳ thi sát hạch kiểm định
viên vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ cấp thêm thẻ kiểm định viên cho
đội ngũ mới hơn 100 người, nhưng tình trạng “thiếu” kiểm định viên các
ngành/chuyên ngành cụ thể như thời gian qua chắc chắn vẫn chưa thể giải
quyết được ngay.
Ngoài ra, với Thông tư 14/2022/TT-BGDĐT quy định về kiểm định viên
giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm, các trung tâm kiểm định cần phải
xây dựng cơ chế nhận xét kiểm định viên công bằng, xử phạt, đào thải nếu
vi phạm liêm chính nghề nghiệp hoặc yếu kém về chuyên môn, nghiệp vụ.
Chuyên gia cho rằng đây cũng là một vấn đề quan trọng cần được giải
quyết.
Vấn đề thứ hai là về các công cụ (bộ tiêu chuẩn, tiêu chí và các
phương pháp đánh giá), cơ chế triển khai (các quy định, quy trình, nguồn
lực). Tất cả những vấn đề này đang được hoàn thiện dần, nhưng chắc chắn
không thể trong một thời gian ngắn.
Vấn đề tiếp theo là cơ sở dữ liệu công khai, minh bạch. Chuyên gia
cho rằng cần phải có hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia với đầy đủ số liệu,
thông tin về các điều kiện bảo đảm chất lượng mà các cơ sở giáo dục
phải đăng ký, cập nhật và chịu trách nhiệm... để hỗ trợ, thuận lợi cho
công tác quản lý và kiểm định. Ảnh minh họa: USTH Phân tích sâu hơn về kết quả kiểm định chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục, Tiến sĩ Trần Đình Quang cho hay:
“Kết quả phân tích mức đạt của các chương trình đào tạo đối với các
tiêu chí kiểm định cho thấy, rất nhiều cơ sở giáo dục chưa đáp ứng yêu
cầu của các tiêu chí 3.2 (thiết kế chương trình dạy học), 5.3 (phương
pháp đánh giá kết quả học tập) và 11.4 (nghiên cứu khoa học của người
học)”.
Nhấn mạnh thêm về kết quả này, Tiến sĩ Trần Đình Quang khẳng định kết
quả này phản ánh nhận thức và thực hành của đơn vị đào tạo, giảng viên
chưa đủ cao chứ không phải hoặc không chỉ là do bản thân chương trình
đào tạo chưa đạt.
Có nhận định điểm yếu các chương trình đào tạo của Việt Nam là Kiểm
tra-đánh giá người học, Tiến sĩ Trần Đình Quang cho rằng đánh giá như
vậy là chưa chính xác. Theo Tiến sĩ Quang, chương trình đào tạo được
đánh giá có Tiêu chí 5.3 về phương pháp đánh giá kết quả học tập (chẳng
hạn) là mức 3 (Chưa đạt) nhưng sinh viên tốt nghiệp chương trình đào tạo
này lại thể hiện rất tốt tại đơn vị, doanh nghiệp công tác, thậm chí
giữ những vị trí trọng trách cao trong xã hội.
Do đó, chuyên gia nhận định vấn đề ở đây là nhận thức (phần lí
thuyết) về “mô tả chương trình” chứ không hẳn là bản thân chương trình
đào tạo.
Kiến nghị thúc đẩy văn hóa chất lượng trong giáo dục đại học
Để hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục đạt hiệu quả cao hơn, Tiến
sĩ Trần Đình Quang nhấn mạnh, cần duy trì và nâng cao tính độc lập
trong hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục, tăng cường chính sách thúc đẩy tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình
của các cơ sở giáo dục đại học. Điều quan trọng là phát triển văn hóa
chất lượng trong toàn hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học
nói riêng.
“Mỗi khi văn hóa chất lượng lượng được hình thành thì việc các cơ sở
giáo dục đại học đạt tiêu chuẩn chất lượng là hiển nhiên. Khi đó, chúng
ta không còn cần phải chú trọng đến kiểm định chất lượng giáo dục nữa mà
chỉ duy trì cơ chế bảo đảm chất lượng nội bộ (Internal Quality
Assurance) và xếp hạng đại học để đối sánh và khẳng định vị thế mà
thôi”, chuyên gia bày tỏ quan điểm.
Đưa ra khuyến nghị đối với các cơ sở giáo dục đại học, Giám đốc Trung
tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Trường Đại học Vinh đề xuất các cơ
sở giáo dục cần quan tâm và đầu tư nhiều hơn nữa cho việc phát triển hệ
thống bảo đảm chất lượng bên trong bao gồm cả nhân sự và chính sách vận
hành.
Đồng thời, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm tăng cường năng lực giảng viên
về phát triển chương trình dạy học theo OBE, năng lực vận dụng hiệu quả
các phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá mức độ đạt được chuẩn
đầu ra, về nghiên cứu khoa học và ứng dụng/chuyển giao khoa học công
nghệ, và về sở hữu trí tuệ.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước, Tiến sĩ Trần Đình Quang đề xuất cần
kịp thời rà soát và thống nhất hệ thống văn bản quy định và hướng dẫn
về công tác kiểm định chất lượng giáo dục như Nghị định về đầu tư trong
giáo dục thay thế Nghị định 46/2017/NĐ-CP và Nghị định135/2018/NĐ-CP;
Thông tư thay thế Thông tư 61/2012/TT-BGDĐT quy định về việc thành lập,
tổ chức hoạt động và giải thể các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục
phù hợp với Luật 34/2018/QH14 hiện hành; rà soát và ban hành các thông
tư thay thế Thông tư 38/2013/TT-BGDĐT, Thông tư 04/2016/TT-BGDĐT và
Thông tư 12/2017/TT-BGDÐT để cập nhật các bộ tiêu chuẩn đánh giá chương
trình đào tạo và cơ sở giáo dục nhằm khắc phục các tồn tại của các bộ
tiêu chuẩn tương ứng hiện hành (Thông tư 38/2013/TT-BGDĐT đã ban hành 10
năm, Thông tư 12/2017/TT-BGDÐT cũng đã được 6 năm); các văn bản về công
tác tài chính cho hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục; văn bản về
công nhận minh chứng số…
Quan tâm tới yêu cầu về đội ngũ kiểm định viên, Giám đốc Trung tâm
Kiểm định chất lượng Giáo dục Sài Gòn đề xuất, việc yêu cầu mỗi trung
tâm kiểm định chất lượng phải có một số lượng nhất định kiểm định viên
cơ hữu nên xem xét lại để tránh tình trạng các trung tâm chỉ sử dụng các
kiểm định viên lớn tuổi hoặc những người chưa đủ uy tín để thực hiện
các đánh giá rất quan trọng có sự ảnh hưởng đến sự phát triển của các
trường đại học như hiện nay.
“Chuẩn hóa các trung tâm kiểm định thông qua yêu cầu nghiêm
khắc về đội ngũ lãnh đạo, quản lý và hỗ trợ chuyên nghiệp, chứ không
phải là yêu cầu phải có đủ đội ngũ kiểm định viên, do kiểm định viên cần
phải là những người đang công tác tại các cơ sở đại học, Tiến sĩ Nguyễn
Kim Dung nhấn mạnh. |